VẤN ĐỀ NGHI LỄ TRUNG HOA
VÀ GIÁO HỘI VN THẾ KỶ 18.
Một sự kiện nổi cộm tại các Giáo Hội Á Châu kéo dài nhiều thế kỷ là cuộc tranh luận về nghi lễ Trung Hoa. Nằm trong quỷ đạo tư tưởng Trung Hoa, Giáo hội Việt Nam cũng phải gánh chịu những hệ luỵ trên.
Lai lịch vấn đề.
Các giáo sĩ Dòng Tên khi đến Trung Quốc và VN đã gặp phải những phong tục, tập quán , những lễ nghi thuộc nhiều tôn giáo khác nhau . Họ thường có thiện cảm với Khổng giáo và nhận xét thiên lệch về các tôn giáo khác. Về việc cúng bái vong linh người chết, việc tế trời, tế thần, tế bài vị tổ tiên…họ có những ý kiến khác nhau: nghiêm cấm hoặc thích nghi. Vì Ki tô giáo mới hội nhập nên chưa có những từ chính xác để chỉ về Chúa, về đạo nên buộc họ phải chọn lựa những từ tương đương trong ngôn ngữ địa phương để giáo dân có thể hiểu được. Ở Trung quốc, cha Mateo Ricci cho rằng trong việc phụng thờ tôn kính tổ tiên nếu gạn đục khơi trong sẽ thấy rõ có nhiều điều không phải dị đoan mê tín. Ricci không đồng ý ‘’Trung hoa hoá’’ những danh từ thần học Âu châu, khó hiểu, vô nghĩa đối với lỗ tai Trung Quốc, nên tìm những từ có sẵn trong từ vựïng Trung Hoa tương tự.
Năm 1631, Cha dòng Đa Minh Gioan de Moralès và cha Phan Sinh Antonio a Santa Maria đến Amoy. Các linh mục nầy áp dụng phương pháp mới , khác hẳn với những điều mà Dòng tên đã thực hiện theo đường hướng Ricci. Do vậy khi các vị mới đến chứng kiến lễ nghi tôn kính tổ tiên tại Trung Quốc, các vị bị ‘’ sốc’’ngay. Trước hết là do sự tham gia tích cực của giáo dân, hai nữa, các ngài cho là những người nầy phán đoán sai lầm. Moralès yêu cầu Toà giám mục Macau lên tiếng. Thấy không xong, Moralès về thẳng Rôma tường trình. Bộ Truyền giáo qua một bản văn đã được Đức Thánh Cha Innocent 10 phê duyệt lên án nghi lễ Trung hoa ngày 12-9-1645 theo như Moralès trình bày. Cuộc tranh luận khởi sự và kéo dài gần một thế kỷ, không chỉ trong phạm vi Trung Hoa mà còn lan rộng khắp nơi, trở thành một trong vấn đề quan trọng của thế kỷ 17, 18.
Để phản công, các giáo sĩ Dòng Tên đã nhờ cha Martini ghi chép tất cả và lên đường về Roma trình bày. Ngày 23-3-1656, Bộ Đức Tin ( Saint-Office) công bố sắc lệnh đã được Đức Alexandre 7 phê chuẩn ‘’ cho phép người Trung Hoa cử hành những nghi thức thuần dân sự và chính trị và ’’ nhắc nhở tránh xa dị đoan. ‘’
ĐỨC THÁNH CHA ALEXANDRE 7.
Hai văn kiện trái nghịch nhau. Bên cho phép, bên lên án. Cha Đa Minh Jean Polanco lại đệ lên tường trình mới. Lần nầy Bộ Đức tin, được Đức Thánh Cha Clément 9 phê chuẩn xác định ngày 20-11-1669 rằng cả hai điều hiệu lực xét theo từng vấn đề, từng hoàn cảnh.’’ Trên bình diện thần học : nghi lễ thờ ngẫu tượng thì cấm ngặt, nếu là nghi lễ dân sự thì cho phép. Nhưng vẫân còn nhiều điều mập mờ, chưa rõ. Lại tiếp tục tranh cải.
Năm 1667, 23 vị gồm 19 SJ, 3 OP, 1 OFM gặp nhau và đồng ý chung những công việc mục vụ về các nghi thức Trung hoa, theo chỉ thị Rôma. Cha Navarette, Bề trên Dòng Đa Minh tại Trung Quốc miển cưởng ký văn bản vì Bề Trên Giám tỉnh yêu cầu. Rời Quảng Đông , cha về Macau, rồi đi Âu Châu. Khi ở Madrid, ngài viết hai tác phẩm xuất bản năm 1676, 1679 bàn về phương pháp các cha Dòng Tên tại Trung Quốc. Từ nội bộ các giáo sĩ thừa sai, cuộc tranh cải lan ra phạm vi quảng đại quần chúng.
ĐỨC CHA MAIGROT .
Năm 1674, Navarette đệ trình Bộ Thánh vụ một loạt câu hỏi về nghi lễ Trung Hoa. Tuy Toà Thánh không ra chỉ thị nào nữa, nhưng sau đó, khi Đức cha Maigrot can thiệp vào vụ nầy thì hậu quả trở nên nghiêm trọng. Ngày 26 -3-1693, Đại diện tông toà Phước Kiến , ĐC Maigrot gởi thơ mục vụ về vấn đề nghi lễ Trung Quốc, cấm giáo dân tham dự nghi lễ kính Đức Khổng Tử, những người chết, ngoài ra con loại bỏ những từ dùng để chỉ Chúa đã được dùng trước đây. Mục đích của ĐC Maigrot là buộc Toà Thánh xét lại. Ngài còn gởi cha M. Charmot , MEP, đi Rôma để hổ trợ cho ý đồ trên. Một Hội đồng Hồng Y họp nhau thảo luận, hoàn tất công việc năm 1699. Đức Thánh Cha lại yêu cầu bốn vị khác đánh giá và cho ý kiến.
Cha Charmot trao công trình của các Hồng Y cho Đức Tổng giám mục Paris, de Noailles, yêu cầu Đại học Sorbonne lên án, để đối trọng với phán quyết Rôma, vì sợï ủng hộ lập trường Dòng Tên.
Các tiến sĩ ở Sorbonne phân tích hai tác phẩm của Dòng Tên ở Trung Quốc cha Louis Lecomte (1696) và Le Gobien (1698) mới xuất bản . Các tác phẩm rất thành công ở Pháp và cả bên Mỹ Châu. Họ rút ra năm mệnh đề chính yếu. Sau khi thảo luận năm mệnh đề trên, trường Sorbonne lên án cả năm ngày 18-10-1700.
Chẳng hạn nói rằng dân Trung Hoa từ hai ngàn năm đã biết Chân Chúa và kính tôn Người do đó họ đáng nêu gương sáng giáo huấn tín hữu. Đại Học Sorbonne cho là: Lầm lạc! Gương mù! Nhục mạ Hội Thánh !
HOÀNG ĐẾ KHANG HY.
Bên Trung Quốc , Hoàng đế Khang Hy người từ năm 1692 đã cho thần dân TQ tự do giữ đạo đã gởi một phái đoàn về Rôma để giải thích rằng các nghi lễ trên hoàn toàn có tính cách dân sự. Hoàng Đế còn phổ biến sắc lệnh cho toàn dân trong Đế Quốc. Mặc dầu thế, Rôma không hậu thuẩn cho các giáo sĩ Dòng Tên.
Ngày 20-11-1704, ĐTC Clément 10 phê chuẩn quyết định cuối cùng của Bộ Thánh vụ, theo lập trường của Đức Cha Maigrot. Từ Thiên Chủ được dùng để gọi Chúa, các từ Thiên hoặc Thượng Đế bị cấm ngặt. Không chấp thuận những việc cúng tế trong các đền, các phòng, kính Đức Khổng Tử và tiên tổ. Cấm dùng bài vị, các nghi lễ tang chế trước các bài vị , trước mồ mã, trong các đám tang.
ĐỨC THÁNH CHA CLEMENT 9.
ĐẶC SỨ MAILLARD DE TOURNON.
ĐTC Clément 9 công bố sắc lệnh vào 20-11-1704 và gởi một Đăïc sứ sang Trung Quốc để bày tỏ ý định của Toà Thánh.
Đặc sứ là ĐC Thomas Maillard de Tournon, rời Âu châu năm 1703, đến Ấn Độ, rồi Phi Luật Tân. Sau khi dừng chân ở Macau, đi Quảng Đông ngày 6-4-1705.
Sang Trung Quốc được gặp Hoàng Đế Khang Hy. Hoàng Đế đã hết sức giải thích: đạo tốt mà thực hành xấu vì vi phạm tục lệ các nước. Hoàng Đế cho rằng có lẻ ĐTC được thông tin bởi những ngưởi quá dốt nát, không thông hiểu về ngôn ngữ, phong tục, kinh sách Trung Quốc. Để thử tài, Đức Cha Maigrot được mời đến, Hoàng Đế đã làm bẻ mặt ngài trước triều thần khi ngài không cắt nghĩa nỗi những chữ đại tự treo trên tường. Đức Cha Maigrot và tuỳ tùng Đức Khâm sai bị trục xuất. Về Nam Kinh, Đức Khâm sai cứ công bố lệnh Toà thánh, bị bắt nhốt ‘’ nhờ người Bồ giữ hộ’’, chờ cho phái đoàn hai cha đi Rôma về hãy hay. Nhưng hai cha kia đã chết chìm trên đại dương. Cuối cùng Đức Khâm sai sau khi được Toà thánh khen thưởng chức Hồng y, cũng chết tại Macau 1710. Bài điếu văn ca tụng ngài ‘’ nhiệt thành trong việc thiết lập đạo công giáo, quảng đại bênh vực những quyền lợi và quyền lực Toà Thánh ‘’
ĐƯC THÁNH CHA CLEMENT 11.
Lập trường cứng rắn của Đức Clément 11.Sau khi Đức Cha Maigrot gặp Hoàng đế về tường thuật lại và nói lập trường của mình, một Đức giám mục ở Quảng Tây lưu ý Toà Thánh là nếu quá cứng rắn sẽ làm nguy hại cho Giáo Hội Trung Quốc, nhưng ĐTC cương quyết giữ lập trường trước đó vào năm 1704 và lệnh của Đức Đặc sứ De Tournon.
Với hiến chế Ex illa die.. ‘’Lời răn dạy phải giữ toàn bộ, tuyệt đối, nguyên vẹn và không thể vi phạm..’’
Các thừa sai cúi đầu chấp nhận. Giáo dân hoang mang. Nhà cầm quyền khó chịu vì cái tôn giáo mới xâm phạm đến tập tục và làm nhục quốc thể đã hạ lệnh cấm đạo. Đến đời con là Ung Chính ( 1732-36) càng ác liệt hơn.
Trước tình thế nguy ngập, một số người yêu cầu cần một sự can thiệp mới của Rôma.
Đặc sứ Mezzabarba.
Một Đặc sứ mới ĐC Mezzabarba được gởi đến Bắc Kinh. Rời Lisboã, nước Bồ ngày 25-3-1720 và đến Quảng Đông vào ngày 12 tháng 10. Ngài yêu cầu được yết kiến Hoàng Đế. Khang Hy yêu cầu cho biết mục đích. Vị Đặc sứ không che đậy , nói thẳng là đến để công bố những chỉ thị cuả ĐTC. Khang Hy nỗi cơn thịnh nộ, định tống xuất vị Đặc sứ và tất cả các giáo sĩ. Để tránh tai hoạ nầy, Đức Cha bảo sẽ có những phương pháp xoa dịu vấn đề. Khang Hy đồng ý gặp.
Sau khi về đến Macau, 4-11-1721, ngài gữi thư mục vụ cho các giáo sĩ ở Trung Quốc. Ngài không rút lại điều nào trong tông thư Ex illa die. Trong thực hành , cho phép 8 khoản :
+Đặt bài vị có giải thích phân trần.
+ Thi hành lễ nghi với người quá cố theo phong tục.
+ Cúng tế Đức Khổng Tử.
+ Phúng điếu hương nến cho nhà hiếu v.v.
Giải pháp cũng chẳng đến đâu vì hai phe vẫn gầm ghè, bên cởi mở, bên khép kín, chỗ cho phép nơi không cho…
Năm 1721, ĐTC Clément 9 về chầu Chúa. Năm 1722, Khang Hy cũng về với tiên tổ. Tình hình rối ben, có nơi Đấng bản quyền cho phép, có nơi cấm ngặt. ĐTC Clément 12 yêu cầu nghiên cứu lại hồ sơ kỹ càng. Và sự gì phải đến đã đến. Ngày 11-7-1742, qua chỉ dụ Ex quo singulari, Đức Bênêđíctô 14 đã đặt một dấu chấm hết cho vấn đề trên. Rút lại các quyết định của Đặc sứ Mezzabarba, trở lại hiến chương 1715. Lệnh dứt phép thông công cho những ai bất phục tùng và yêu cầu thề lại.
ĐỨC THÁNH CHA BIỂN ĐỨC 14.
HOÀNG ĐẾ UNG CHÍNH.
Cùng với quyết định đó cũng dứt điểm nghi lễ Ân Độ. Hoàng Đế TQ ra lệnh cấm đạo. Đời con Khang Hy là Ung Chính (1732-36) lại càng ác liệt hơn. Từ 300.000, giáo dân nay chỉ còn 30.000.
Riêng tại các quốc gia ảnh hưởng Trung Hoa, nhà cầm quyền cũng hùa theo. Tin Mừng đến Á Đông đang thuận lợi phải khựng lại một sớm một chiều.
Vấn đề nghi lễ Trung Hoa tại Việt Nam.
Nằm trong quỷ đạo Trung Hoa, các giáo sĩ truyền giáo tại VN cũng chia ra hai khối, rình rập sơ hở để tố nhau. Xem lại mấy bức thư và giấy tờ còn lưu lại cho thấy những điều ấy.
Xem chứng từ 1770 của ba giáo dân Ngọc Đường tố cụ Văn, thuộc quyền Đức cụ Bê coi sóc, về một đám tang, mà theo họ có những điều mê tín .
Tờ thề do linh mục Tải, sacêdote Tunkin..’’ về những sự dối trá về thói lễ nghĩa nước Đại Minh.. chẳng chước mốc nào cho khỏi vâng.. thì tôi cam chịu phạt…tay tôi đá đến sách Evang, tôi hứa khấn và thề sẽ cứ như vậy. ‘’ 28-2-1741.
Đơn kiện của các ‘’ mụ và chị ả’’Dòng Mến Thánh Giá yêu cầu ‘’ cụ Bảo Lộc Dòng Đức Chúa Giêsu rao mà phạt vạ ông cụ Chính Tri cùng đấng Vítvồ Lui…lấy sự ấy làm quái gở và trái lẻ trái phép’’.Tất cả đã làm dấu Curút ( đã làm dấu thập, đã ký.. vì không biết chữ) Kẻ Vân 5-1760. ( Xem Lịch sử Giáo phận Hà Nội trang 131 – 137.)
Tại Huế : giữa cha Sanna , Dòng Tên và các thừa sai Paris. ( Xem lịch sử Giáo phận Huế tr,110 tt.)
Một vài sự kiện nói lên những khủng hoảng nội bộ ở VN về nghi lễ TQ và các quyết định của Toà Thánh ảnh hưởng trực tiếp ở VN.
Các luận điểm của các vua chúa Việt Nam dùng để lý giải việc bắt đạo cũng không xa mấy với tư tưởng của các Hoàng đế Trung quốc mà họ trực tiếp chịu ảnh hưởng.
VUA GIA LONG.
Sau nầy, vào cuối thế kỷ 18, Đức Cha Bá Đa Lộc và vua Gia Long cũng gặp những tình huống khó xử như vậy. Hoàng tử Cảnh đi Pháp về không chịu lạy bài vị các tiên quân ở Thế Miếu. Gia Long rất buồn là không lẻ nào đạo lại dạy bỏ ông bỏ bà như thế. Có thể vì đó mà sau nầy Gia Long chọn Hoàng tử Đảm để nối ngôi thay vì dòng dỏi Hoàng tử Cảnh. Hậu quảû ra sao? Vua Minh Mạng đã đối xử với công giáo thế nào, ai cũng biết rõ!!!
Đầu thế kỷ 20 : Xét lại nghi lễ Trung Hoa.
ĐỨC KHỔNG TỬ.
Nhà cầm quyền Mãn châu Quốc ban hành lệnh cho tất cả học sinh phải cúi mình trước bài vị Đức Khổng Tử. Nhà cầm quyền công khai giải thích đây là những nghi lễ dân sự. Bộ Truyền giáo cho phép ngày 28-5-1936.
Ở Nhật Bản cho phép tôn kính Hoàng Đế và các anh hùng dân tộc.
Đức Thánh cha Piô 12 vào ngày 8-12- 1939 cho phép giáo dân Trung Quốc và các nước ảnh hưởng Trung Quốc.
Ở Việt Nam phải đợi một thời gian dài hơn. Năm 1958, hàng giám mục VN làm đơn thỉnh nguyện. Tháng 10 -1964, Toà Thánh cho phép như Trung Hoa năm 1939. Sau Công đồng Vatican 2, khi Hiến chế về Phụng vụ đã được phổ biến khắp nơi thì trong một thông cáo ký tại Đà Lạt ngày 14-6-1965, Hội Đồng Giám mục VN ( miền Nam) cho phép:
‘’…Nhiều hành vi cử chỉ xưa, tại VN, có tính cách tôn giáo, nhưng nay vì sự tiếp xúc với bên ngoài và vì tâm tình tập quán đã thay đổi nhiều, nên chỉ còn là những phương cách biểu lộ lòng hiếu thảo tôn kính với tổ tiên và các anh hùng liệt sĩ.
Những cử chỉ, thái độ nghi lễ có tính cách thế tục, lịch sự và xã giao đó, Giáo Hội công giáo chẳng những không ngăn cấm mà còn mong muốn và khuyến khích cho nó được diễn tả bằng các cử chỉ riêng biệt cho mỗi nước, mỗi xứ và tuỳ theo trường hợp..( như treo ảnh, dựng hình, nghiêng mình bái kính, trưng hoa đèn, tỗ chức giỗ, kỵ..) ..thì được tham gia cách chủ động’’.
Tuy có muộn, nhưng bản thông cáo đã giải toả những ẩn ức kéo dài qua nhiều thế hệ: theo đạo là phải khước từ những tập tục tốt đẹp của dân tộc và trở nên xa lạ với bà con dòng tộc. ‘’ Đi đạo là bỏ ông bỏ bà’’. Loại bỏ những gì là mê tín dị đoan thì những nghi lễ cổ truyền dân tộc vốn mang nhiều biểu tượng thờ phượng tốt đẹp sẽ giúp người VN công giáo được gần gũi hơn với đồng bào và quê hương mình. Đây làø công trình hội nhập văn hoá mà Giáo hội đang khuyến khích, là lúc gạn đục khơi trong, một giai đoạn thuận lợi để thực hiện sứ mệnh loan báo Tin Mừng tại Á Châu như Tông thư Giáo hội tại Á Châu của Đức thánh Cha Gioan Phaolô 2 đã mời gọi.
Tham khảo và bài đọc thêm.
+ HỒNG NHUỆ NGUYỄN KHẮC XUYÊN: Lịch sử Địa phận Hà Nội, tư liệu, cuốn 1, Paris 1994, trang 131 tt.
+STAN.NGUYỄN VĂN NGỌC, GIUSE NGUYỄN VĂN HỘI : Lich sử Giáo phận Huế, tài liệu lưu hành nội bộ, Huế 1993, tr.108 tt.
+ Tham luận tại cuộc toạ đàm về Đạo hiếu do Toà Tổng Giám mục Huế tổ chức năm 1999.
+ Giáo huấn của HĐGMVN về việc tôn kính ông bà tổ tiên năm 1965.
+ Thông báo về khoá Hội thảo của 7 Giám mục Việt Nam họp tại Nha Trang năm 1974.
+ Tông khuyến thư Giáo Hội tại Á Châu ( Ecclesia in Asia) của ĐTC Gioan Phaolô 2, chương 4.
Trả lời