HÒA VANG HUYỆN CHÍ ( Bài 6)
ĐỊA CHÍ HUYỆN HÒA VANG
Chân dung vua Gia Long . Nguồn : Internet.
Cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn giữa Tây Sơn và Nhà Nguyễn đã gây nên thảm cảnh kinh hòang cho vùng đất Miền Trung trong đó có Quảng Nam đặc biệt huyện Hòa Vang, bị kẹp giữa núi Trường Sơn chạy sát bờ biển. Các đạo quân của Chúa Nguyễn, Chúa Trịnh và Tây Sơn đều phải đi qua vùng địa dư chính trị nầy ( geopolitique). Bộ binh qua đèo Hải Vân và thủy binh phải dừng để tránh gío bão hoặc được tiếp tế lương thực tại Hàn, cảng Đà Nẵng. Cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19, các binh đòan đã chà qua xát lại vùng đất nầy bao lần mãi cho đến khi vua Gia Long bình định cả hai miền Nam Bắc vào năm 1802. Linh mục Halbout người đã có mặt trong những năm tháng ấy tại vùng Bàu Nghè ( An Ngãi ) đã nói đến nạn đói lớn vào những năm 1775 trở đi. Nhà cửa bị tàn phá , đất đai không thể canh tác và người quyền quý, giàu có hoặc nghèo khổ đều túng thiếu, đói khổ như nhau. Lúa gạo miền Nam không chuyển ra được nên giá lúa tăng cao khiến vàng bạc không còn giá trị gì nữa cả. Linh mục Halbout còn cho biết sau chiến tranh dân tiếp tục chết đói vì không còn hạt giống để gieo trồng. Trong ba năm trời, tình trạng tỉnh Quảng Nam bị tàn phá khủng khiếp đến độ ấy thì việc học hành phát triển sao được. Qua thống kê của Trần Ngọc Thước, các tiến sĩ, cử nhân, tú tài vùng Quảng Nam xuất hiện khá muộn sau thời Gia Long. Chiến tranh chắc chắn đã giết chết hoặc lưu tán những nhà khoa bảng hoặc có chữ nghĩa vì lý do họ là công bộc dính líu đến chế độ cũ (nhà Nguyễn) hoặc mới ( Trịnh, Tây Sơn). Khi Gia Long kiểm sóat đuợc tình hình, các gia tộc có liên hệ đến vụ “ phản lọan” chống Nhà Nguyễn nếu không bị giết, tù đày, trốn lên rừng núi thì cũng chẳng còn được trọng dụng. Tuy nhiên, dân tỉnh Quảng Nam vẫn phấn đấu học tập và nhiều vị đã chạm đến bằng tiến sĩ, cử nhân. Chính sách giáo dục của Nhà Nguyễn sau Tây Sơn khá hẹp hòi, ngòai những tộc họ đã phò Tây Sơn hoặc có nguy cơ phản lọan không được thi cử đã đành, họ cũng kỳ thị và coi khinh đạo công giáo , liệt tôn giáo nầy vào hạng “ tả đạo” , so với chính đạo là Nho giáo . Tín đồ bị coi là “ dửu dân” ( dân cỏ dại) so với “lương dân” (lương thiện !?). Từ Minh Mạng đến khi thực dân Pháp chiếm Kinh đô Huế, không thấy tên một giáo dân nào có bằng cấp, ngày nay chúng ta lấy làm lạ, nhưng lỗi không phải giáo dân ngu dốt mà chính từ chính sách ngu dân và phân biệt đối xử. Tại vùng Hội Yên ( Hòa Bắc hiện nay) có một cử nhân gốc công giáo nhưng đã chối đạo. Ngày nay ngôi mộ “ ông cử ” vẫn còn đó nhưng có cắm thánh giá. Do vậy, nhiều đầu óc xuất chúng công giáo như Nguyễn Trường Tộ, Đặng Đức Tuấn, Trương Vĩnh Ký…đều không có văn bằng nào do triều Nguyễn cấp phát.
Bản thống kê tiến sĩ, cử nhân, tú tài vùng Hoà Vang chứng tỏ vùng nầy xứng đáng là vùng “ đất học”. Ngòai “ con ông cháu cha’, cũng thấy xuất hiện nhiều người từ những thôn làng hẻo lánh, thuần nông.
ĐẠI NAM NHẤT THỐNG CHÍ – QUYỀN THỨ 13
HUYỆN HÒA VANG TỈNH QUẢNG NAM ( Bài 6 )
NHÂN TÀI
“ Không công danh thà nát với cỏ cây”( thơ Nguyễn Công Trứ). Học để làm quan. Ảnh minh hoạ từ nguồn Internet.
KHOA BẢNG HUYỆN HÒA VANG.
(Lưu ý : Phần nhân tài do con trai Trần Nhật Tỉnh là Trần Ngọc Thước biên sọan )
Chép từ Quốc triều Gia Long năm thứ 9 trở về sau.
Kẻ hậu học ở làng Quan Nam, là Trần Ngọc Thước, hiệu Lưu Kim, cung kính nhặt nhạnh, thu góp, biên chép lại.
Chân dung vua Minh Mạng. Nguồn Internet.
TIẾN SĨ.
ĐỖ PHÚC TỊNH
Người xã La Châu, tổng Phước Tường thượng. Thiệu Trị năm thứ 6, khoa Bính Ngọ đậu cử nhân. Tự Đức năm đầu, khoa đặc ân Mậu Thân, ông đậu tiến sĩ thứ 4. làm quan đến chức tuần vũ Định Tường. Huyện ta phát khoa tiến sĩ, ông là người đầu tiên.
CỬ NHÂN.
HÀ VĂN HẢI
Người xã Hải Châu, tổng Bình Thới hạ, năm Gia Long thứ 9, khoa hương cống năm Canh Ngọ, ông là người đầu tiên đậu cử nhân trong huyện ta.
PHAN HÒA
Người xã Phiếm Ái, tổng Đức Hòa thượng. Minh Mạng năm thứ 9, đậu khoa cử nhân năm Mậu Tí, kể từ khoa này, hương cống đổi thành cử nhân. Ông làm quan đến chức Lang trung bộ Binh.
NGUYỄN VĂN CUNG
Người xã Thanh Châu, tổng Thanh Châu. Thiệu Trị năm thứ 6, đậu cử nhân khoa Bính Ngọ.
NGUYỄN VĂN LÝ
Người xã Hội Yên, tổng Hòa An thượng. Thiệu Trị năm thứ 7, đậu cử nhân khoa Đinh Mùi.
NGUYỄN ĐỨC PHONG
Người xã Quan Nam, tổng Hòa An thượng, Tự Đức năm đầu khoa Mậu Thân đậu cử nhân. Làm quan đến chức án sát tỉnh Quảng Bình, sung Bắc kỳ tán tương. Ông Nguyễn Đức Hoan chính là anh ông.
NGUYỄN QUANG HANH
Người xã Nại Hiên, tổng Bình Thới hạ. Tự Đức năm thứ 3, khoa Canh Tuất đậu tú tài, Tự Đức năm thứ 5, khoa Nhâm Tí, đậu giải nguyên. Làm quan đến chức án sát sứ tỉnh Nghệ an, được lệnh đem binh đi dẹp loạn mà không đánh, bị khép tội. Được đặc cách khai phục hàm Hàn Lâm kiểm thảo.
TRẦN BÁ ĐẠT
Người xã Ninh An. Tổng An Châu thượng. Năm Tự Đức thứ 14, khoa Tân Dậu, đậu cử nhân. Làm quan chức tri huyện Hậu Lộc.
NGUYỄN ĐỨC HOAN.
Người xã Quan Nam, tổng Hòa An thượng. Tự Đức năm thứ 3, khoa Canh Tuất đậu tú tài, Tự Đức thứ 5, khoa Nhâm Tí, Tự Đức năm thứ 14 khoa Tân Dậu, 3 khoa vẫn chỉ đậu tú tài. Đến năm Tự Đức thứ 17, khoa Giáp Tí, đậu Á giải nguyên (cử nhân đứng thứ 2), làm quan đến chức tri phủ tại các phủ ở Quảng Ninh, Quảng Bình.
NGUYỄN THÔNG
Người xã Khe Lâm, tổng Phước Tường Thượng. Tự Đức năm thứ 21, khoa Mậu Thìn đậu cử nhân, làm quan đến chức Lang trung bộ Binh, khâm phái làm chánh thanh tra tỉnh Thanh Hóa.
PHAN THƯỜNG CHUYẾT
Người xã Phiếm Ái, tổng Đức Hòa Thượng, Tự Đức năm thứ 14, khoa Tân Dậu trở về sau, chỉ đậu 4 khoa tú tài. Tự Đức năm thứ 32, khoa Kỷ Mão đậu cử nhân. Làm quan đến Hàn lâm viện tu soạn, trải qua chức huấn đạo huyện Đại Lộc, Duy Xuyên.
TRƯƠNG LIÊN
Người xã Phiếm Ái, tổng Đức Hòa thượng, Đồng Khánh năm thứ 3,Tự Đức năm thứ 32, khoa Kỷ Mão đậu cử nhân. Làm quan đến Hàn lâm viện tu soạn, trải qua chức huấn đạo huyện Đại Lộc, Duy Xuyên.
TRƯƠNG LÂM
Người xã Phiếm Ái, tổng Đức Hòa thượng, Đồng Khánh năm thứ 3, khoa Mậu Tí đậu cử nhân. Làm quan đến Hàn lâm viện trước tác, bị can vào vụ đồng dân xin xâu thuế.
LÊ BÁ TRINH
Người xã Hải Châu chánh, tổng Bình Thới hạ. Thành Thái năm thứ 9, khoa Đinh Dậu đậu tú tài. Thành Thái năm thứ 12, khoa Canh Tí đậu cử nhân, bị đày đi Côn Lôn.
LƯƠNG THÚC KỲ
Người xã Hà Tân …
TÚ TÀI
ĐỖ NHƯ TÙNG
Người xã La Châu, tổng Phước Tường thượng. Gia Long năm thứ 18, khoa Kỷ Mão đậu sinh đồ. Minh Mạng năm thứ 2, khoa Tân Tị đậu 2 khoa tú tài. Làm quan trị huyện An Định. Tiến sĩ Đỗ Thúc Công (tức Đỗ Thúc Tịnh) là con ông Đỗ Như Tùng. Huyện ta phát khoa tú tài, ông là người đầu tiên.
HỒ LỄ NGHI
Người xã Thanh Khê, tổng Bình Thới hạ. Minh Mạng nhị niên, khoa Tân Tị đậu sinh đồ.
PHAN VĂN LỄ
Người xã Phú Sơn, tổng Phước Tường thượng. Minh Mạng năm thứ 6, khoa Ất Dậu đậu sinh đồ.
HUỲNH NGỌC PHAN
Người xã Hòa Lam, tổng An Châu thượng. Minh Mạng năm thứ 9, khoa Mậu Tí đậu tú tài. Kể từ khoa này đổi sinh đồ gọi tú tài. Ông là cha của 2 ông Huỳnh Ngọc Phác, Huỳnh Ngọc Trác.
ĐỖ THÚC BÁCH
Người xã Thúy Loan, tổng An Châu thượng. Minh Mạng năm thứ 15, khoa Giáp Ngọ đậu tú tài. Thiệu Trị năm thứ 3, khoa Quý Mão đậu 2 khoa tú tài. Ông là em của Đỗ Như Tùng.
TRẦN HỮU TIẾN
Người xã Duyên Sơn, tổng Phước Tường thượng. Minh Mạng năm thứ 21, khoa Canh Tí đậu tú tài. Lam quan trị huyện huyện Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận.
LÂM HỮU CHÁNH
Người xã Cẩm Toại, tổng An Châu thượng. Minh Mạng năm thứ 21, khoa Canh Tí, rồi tiếp các khoa thi dưới triều Thiệu Trị, Tự Đức ông chỉ đỗ 7 khoa tú tài. Làm quan trị huyện huyện Kim Thành tỉnh Hải Dương.
NGUYỄN HỮU TRIẾT
Người xã Hòa An, tổng Hòa An thượng. Thiệu Trị năm thứ … khoa … đậu tú tài.
NGUYỄN DOÃN CUNG
Người xã Hóa Khuê, tổng Bình Thới hạ. Thiệu Trị năm thứ 6, khoa Bính Ngọ đậu tú tài, ông là anh ông Nguyễn Xuân Hòa.
PHAN TIẾN VINH
Người xã Phước Trạch, tổng Thanh Khê. Thiệu Trị năm thứ 6, khoa Bính Ngọ, đậu tú tài. Ông là anh của Ông Phan Tiến Giảng.
TRẦN HỮU ĐIỂN
Người xã Quan Nam, tổng Hòa An thượng. Thiệu Trị năm thứ 7, khoa Đinh Mùi đậu tú tài. Tự Đức năm đầu, khoa Mậu Thân, Tự Đức năm thứ 3, khoa Canh Tuất, đỗ 3 khoa tú tài.
PHAN TIẾN GIẢNG
Người xã Phước Trạch tổng Thanh Châu, Thiệu Trị năm thứ 7, khoa Đinh Mùi đậu tú tài. Ông là em ông Phan Tiến Vinh.
LÊ VĂN BÍNH
Người xã Vân Dương, tổng Hòa An thượng. Thiệu Trị năm thứ 7, khoa Đinh Mùi đậu tú tài.
ĐINH VĂN TRÌ
Người xã Thanh Châu, tổng Thanh Châu. Thiệu Trị năm thứ 7, khoa Đinh Mùi đậu tú tài.
HUỲNH DUY THIỆN
Người xã Thanh Châu, tổng Thanh Châu. Thiệu Trị năm thứ 7, khoa Đinh Mùi đậu tú tài.
TRẦN CÔNG TRẠCH
Người xã Thanh Châu, tổng Thanh Châu. Thiệu Trị năm thứ 7, khoa Đinh Mùi đậu tú tài.
VÕ NHƯ LƯU
Người xã Hải Châu chánh, Tổng Bình Thới hạ, Thiệu Trị năm thứ 7, khoa Đinh Mùi đậu tú tài.
LÊ TRUNG
Người xã Hóa Ô, tổng Bình Thới hạ, Thiệu Trị năm thứ 7, khoa Đinh Mùi đậu tú tài.
LÊ MẪN
Người xã Hóa Ô, tổng Bình Thới hạ, Tự Đức năm đầu, khoa Mậu Thân đậu tú tài.
TRẦN NHỰT TỈNH
Người xã Quan Nam, tổng Hòa An thượng. Tự Đức năm thứ 3, khoa Canh Tuất. Tự Đức năm thứ 5, khoa Nhâm Tí, Tự Đức năm thứ 8 khoa Ất Mão, Tự Đức năm thứ 11, khoa Mậu Ngọ, đậu 4 khoa tú tài.
NGÔ DOÃN CUNG
Người xã Quan Nam, tổng Hòa An thượng. Tự Đức năm thứ 3, khoa Canh Tuất đậu tú tài.
NGUYỄN XUÂN HÒA
Người xã Hóa Khuê, tổng Bình Thới hạ. Tự Đức năm thứ … khoa … đậu tú tài.
PHAN THIỆU
Người xã Phiếm Ái, Tổng Đức Hòa Thượng, đậu tú tài.
TRƯƠNG THÀNH
Người xã Phiếm Ái, Tổng đức Hòa Thượng, đậu tú tài.
Chân dung vua Tự Đức. Nguồn Internet.
VÕ KHẮC CẦN
Người xã Đại An, tổng Thanh Châu. Tự Đức năm thứ 5, khoa Nhâm Tí đậu tú tài.
PHAN TẤN MẬU
Người xã Phước Trạch, tổng Thanh Châu. Tự Đức năm thứ … khoa … đậu tú tài. Ông là em của 2 ông Phan Tiến Vinh, Phan Tiến Giảng.
NGUYỄN TẤN CƠ
Người xã Phước Trạch, tổng Thanh Châu. Tự Đức năm thứ … khoa … đậu tú tài. Đồng Khánh năm thứ 2, sung làm Thương biện tỉnh nhà, cuối cùng được tặng Hàn lâm viện thị giảng.
ĐỖ THỚI HANH
Người xã Thới Lai, tổng An Châu thượng. Tự Đức năm thứ 14, khoa Tân Dậu đậu tú tài.
HỒ TRƯỚC
Người xã Thanh Châu, tổng Thanh Châu. Tự Đức năm thứ 14, khoa Tân Dậu đậu tú tài. Giữ chức Quản cơ hộ lấy yến.
HUỲNH NGỌC TRÁC
Người xã Hương Lam, tổng An Châu thượng. Tự Đức năm thứ 14, khoa Tân Dậu đậu tú tài. Ông là con thứ của ông Huỳnh Ngọc Phan.
NGUYỄN HỮU
Người xã Hòa An, tổng Hòa An thượng. Tự Đức năm thứ 17, khoa Giáp Tý đậu tú tài.
TRẦN CÔNG HOÀNH
Người xã Thạch Nham, tổng Hòa An thượng. Tự Đức năm thứ 17, khoa Giáp Tý đậu tú tài.
HỨA ĐĂNG ĐỆ
Người xã Ái Nghĩa, tổng Hòa An thượng. Tự Đức năm thứ 17, khoa Giáp Tý đậu tú tài.
ĐỖ GIA PHÁC
Người xã Ái Nghĩa, tổng Đức Hòa thượng, Tự Đức năm thứ 20, khoa Đinh Mão đậu tú tài.
NGUYỄN THUẬT
Người xã Thanh Châu, tổng Thanh Châu. Tự Đức năm thứ 20, khoa Đinh Mão đậu tú tài.
HUỲNH NGỌC PHÁC
Người xã Hương Lam, tổng An Châu thượng. Tự Đức năm thứ 20, khoa Đinh Mão đậu tú tài. Ông là con trưởng của ông Huỳnh Ngọc Phan.
VÕ ĐAN DOANH
Người xã Phước Tường, tổng Phước Tường thượng. Tự Đức năm thứ 21. khoa Mậu Thìn đậu tú tài. Làm quan đến chức Lang trung bộ Binh.
NGUYỄN QUANG
Người xã Hóa Khuê, tổng Bình Thới hạ. Tự Đức năm thứ 21, khoa Mậu Thìn đậu tú tài.
VÕ ĐỄ
Người xã Hòa An, tổng Hòa An thượng. Tự Đức năm thứ 23, khoa Canh Ngọ đậu tú tài. Làm quan chức lại mục.
VÕ KHẮC TUY
Người xã Đại An, tổng Thanh Châu. Tự Đức năm thứ 26, khoa Quý Dậu đậu tú tài. Tự Đức năm thứ 31, khoa Mậu Dần, đậu hai khoa tú tài. Ông là con ông Võ Khắc Cần.
NGUYỄN CHẤT
Người xã Bồ Bản, tổng An Châu thượng. Tự Đức năm thứ 26, khoa Mậu Dần đậu tú tài.
LÊ TRUYỀN
Người xã Hưởng Phước, tổng An Châu thượng. Tự Đức năm thứ 31, khoa Mậu Dần đậu tú tài.
LÂM MẪN
Người xã …, tổng An Châu thượng. Kiến Phước năm đầu, khoa Giáp Thân đậu tú tài, Thành Thái năm thứ 3, khoa Tân Mão đậu 2 khoa tú tài, ông là con ông Lâm Hữu Chánh.
TRẦN QUANG
Người xã Duyên Sơn, tổng Phước Tường thượng. Kiến Phước năm đầu, khoa Giáp Thân đậu tú tài.
TRẦN NINH
Người xã Duyên Sơn, tổng Phước Tường thượng. Thành Thái năm thứ 3, khoa Tân Mão đậu tú tài. Ông là con ông Trần Hữu Tiến.
CAO HỮU TRÍ
Người xã Trúc Hà, tổng Đức Hòa thượng. Thành Thái năm thứ 3, khoa Tân Mão, đậu tú tài. Thành Thái năm thứ 12, khoa Canh Tị đậu 2 khoa tú tài.
TRƯƠNG PHẤN
Người xã Phiếm Ái, Tổng Đức Hòa thượng, Thành Thái năm thứ 6, khoa Giáp Ngọ đậu tú tài.
PHẠM SĨ LÂM
Người xã Xuân Thiều, tổng Bình Thới hạ. Thành Thái năm thứ 9, khoa Đinh Dậu đậu tú tài.
TRẦN NGOẠN
Người xã Hưởng Phước, tổng Hòa An thượng. Thành Thái năm thứ 15, khoa Quý Mão đậu tú tài.
LÊ THÚC HỔ
Người xã Phong Lệ, Tổng Bình Thới hạ. Thành Thái năm thứ 15, khoa Quý Mão đậu tú tài.
LÊ VỸ
Người xã Vân Dương, tổng Hòa An thượng. Thành Thái năm thứ 15, khoa Quý Mão đậu tú tài.
CỐNG SINH
TRƯƠNG HỌC HẢI
Người xã Phiếm Ái, Tổng Đức Hòa thượng. Cử nhân Trương Lâm chính là cha ông.
ẤM SINH NGỒI HỌC Ở QUỐC TỬ GIÁM.
ĐỖ BÙI TRỊ
Người xã La Châu, tổng Phước Tường thượng. Tự Đức năm thứ 32, khoa Kỷ Mão vào học ở Quốc tử giám với tư cách là ấm sinh thượng hạng, ông là con út của ông tiến sĩ Tuần Vũ (Đỗ Thúc Tịnh).
ẤM SINH HỌC Ở TRƯỜNG TỈNH.
ĐỖ THÚC ĐÃNH
Người xã La Châu, tổng Phước Tường thượng. Tự Đức năm thứ 32, khoa Kỷ Mão vào học trường tỉnh với tư cách ấm sinh. Ông là con thứ của tiến sĩ Tuần Vũ (Đỗ Thúc Tịnh).
ĐẶNG QUANG
Người xã Thúy Loan, tổng An Châu thượng. Thành Thái năm thứ 5, khoa Quý Tị vào học trường tỉnh với tư cách ấm sinh. Ông là con phó vệ úy Đặng Văn.
ĐỖ TRỌNG LIÊM
Người xã La Châu, tổng Phước Tường thượng, Thành Thái năm thứ 9, khoa Đinh Dậu vào học trường tỉnh với tư cách ấm sinh.
HỌC SINH
PHẠM HỮU QUANG
Người xã Đại An, tổng Thanh Châu.
Hội An ngày 30 tháng 8 năm 2010.
Lm An tôn Nguyễn Trường Thăng.
Trả lời