CHỨNG NHÂN ĐỨC TIN TẠI TỈNH QUẢNG NAM CUỐI THẾ KỶ 19.QUA THI PHẨM :
QUẢNG NAM TỈNH ĐẠO NHƠN SỰ TÍCH GIẢNG
( 1835 – 1863)
( BÀI II )
ĐỨC GIÁM MỤC ETIENNE CUENOT THỂ MEP TỬ ĐẠO, NGÀI ĐÃ Ở QUẢNG NAM 3 NĂM TRƯỚC KHI VỀ GÒ THỊ.
Trong phần 2, thi phẩm ‘ Quảng Nam tỉnh đạo nhơn sự tích giảng” cho biết nhưng thông tin chính xác các nhân sự quan trọng trong giáo đoàn Quảng nam cũ chịu khốn khó vì đạo Chúa, trong đó có nhiều người có công trạng “ phò vua giúp nước “ như Đội Nguyễn Thanh Huệ người gốc họ Trà Kiệu. Một sĩ quan quân đội ở mọi cương vị “ đạo binh, thú soát” hơn 10 năm mà chỉ vì đạo Chúa mà phải mang án “ trảm khảo” hay “ giảo hậu” như các thánh sĩ quan Tống Viết Bường, Lê Đăng Thị, Trần Văn Trung ở Huế. Hai mươi ba người bị án lưu đày trong đó có Biện Thọ Phường Đúc ( Phước Kiều). Tất cả hình như thuộc quân đội vì kẻ vào Gia Định, người đi “ bảo đồn”, tức trấn thủ tại Quảng Ngải ( Tư Nghĩa) vùng “ nước non độc địa héo hon có ngày”. Năm lính Trà Kiệu gốc Trà Kiệu bị án đày ra Bắc Thành, tức Hà Nội. Một người sau đó là linh hồn của công cuộc tự vệ ở Trà Kiệu : ông đội Trương Văn Phổ. Kẻ bị cùm trong ngục, người thì bị lưu đày. Tác giả chứng tỏ là một người am hiểu giáo đoàn Quảng Nam đến nổi kể tên rành mạch từng nạn nhân. Ước mong các gia đình giáo dân khi đọc lại bản tường trình nầy cố công tìm lại lịch sử dòng tộc để xem có tên ai trong bảng danh sách nầy không. Có thể trong khi lưu đày họ đã ở lại và định cư luôn ở các tỉnh phía Nam hay phía Bắc.
Ngoài sự tù đày, nhiều người tìm cách trốn chạy “ đào vi thượng sách”. Có người hối lộ để được yên “ lấy của che thân”, “ lo trém cửa nọ, lo lòn miệng kia”. Tác giả tường trình lại các nhân sự trong nổi đau cùng cực nhưng với một sụ bình tĩnh lạ lùng bởi vì tin rằng rồi sẽ có một ngày Thiên Chúa và Mẹ Maria thương đoái nhìn lại thì “ cội còn gốc nguyên “ thôi.
104. Khoa nầy Phó bản một người
Tên là Đội HUỆ, hiệu là Líp Phê.
Trà Kiệu ấy thật (thiệt) là quê
Nguyễn Thanh là họ, tuổi bề (vừa) năm mươi
Bình sanh (sinh) giữa nghĩa Chúa Trời
Phò vua, giúp nước dư mười năm nay
Vững cầm cờ phất trong tay
110. Đạo binh, thú soát, chẳng day, chẳng khờn.
Mình dầu trút hết chức quờn
Án đề trảm khảo (giảo hậu) keo sơn một lòng.
Án lưu hai mươi ba ông
Biện THO (Thọ), Phường Đúc, phía trong Tây thành.
Hai người đầu bèn khởi danh
Phát vô Gia Định, anh sanh hãy (hỡi) còn
Phát hồi Tư Nghĩa bảo đồn
Nước non độc địa héo hon có ngày
Năm binh Trà Kiệu án đày
120. “PHẦN, CHỈ, PHỔ, CÔNG, ĐẠO” phát ngay Bắc Thành
Khi sau có một danh SANH
Cũng đày Kẻ Chợ, phát hành trong năm
Rày còn tại tỉnh mười lăm
Án lưu Gia Định còn nằm chờ trông.
Chánh phát thì (thời) mười hai ông
Còn ba cùm tọt (?cột) ngục trong tỉnh đường
Cùm thời (thì) thầy LÊ VĂN LƯƠNG
Bà NGHI (Ngợi) cấp dưỡng, bà NGUYÊN chủ nhà
Tôi còn lâm lụy dòng cha
130 .Nam nữ trẻ già bĩ cực thảm thương
Phát thì xã LỄ, xã HƯNG
Thầy VĂN, xã HỌC, thầy TƯỜNG, danh CANG
Biện TUẾ, biện DIỄN (Điển) Tùng Sơn
Biện PHI, biện CỐNG, cậu SINH, anh MƯỜI.(cậu Sanh, anh người)
Cùng là xã HỌC, Bàu Nghè
Lại với danh NỔI , người ngoài mới theo
Vững lòng quyết đã chẳng xiêu
Chịu khó vì Chúa, lâm phiền (nghèo) vì Cha
Có phương thoát khỏi hình gia
140. Thủ khoa thì đặng nhưng mà chẳng tham
Ghe phen quan đã ép giam
Bèn lòng phàm phải đồ, phải lưu
Cam tâm, bất oán, bất vưu.
Bất cầu (cần) phú quý, bất ưu khổ bần
Án giam, tam thập ngũ nhân
Ba ông đã được (thì đặng) trọn phần hiếu trung
Cả HỮU, trùm NGHỊ, thầy LONG
Lệnh trên phán tới (nay lên phán trước), thưởng công phu ngài
Rày còn phát ba mươi hai
150 .Vui chịu dật dài (dẳng dài) lưu tiết gian nan
Ca rằng:
“CƯ (cự) THÀNH, BÍNH (binh), TRIỆU (Trị), HIỆU,
TƯ (tự), NĂNGCHIẾU, NGHIỆM, VÂN,
Bằng MINH, LÂN, CƯƠNG (Nho), HUỀ
NGÃI (Nghĩa), THÊM, DĨNH, PHÁN, BÔNG
VÂN, VÌ (Vị), THÀNH , PHƯỚC, VIỆT, THÁI (Thá), SƠN
DỰ, HUẤN (uẩn), VĨ (mùi), TRA (trà), DINH, DUYÊN
TRIỆT, BINH, (xin hãy sống coi) cố gắng sống mà coi
Lẽ nà bẻ mạng chống trời đặng (được) sao
Bấy lâu lừng lẫy hùng hào
160. Ra sức cuốc đạo, cội còn, gốc nguyên
(ra sức cuốc đào cội rể còn nguyên)
Khen cho cây cứng rễ bền
Búa vồ rìu chém hai bên chi khờn
(Búa rìu… chém hai bên chẳng sờn)
Ngửa trông ơn, cứu cơn nước lửa
Muôn cậy Mẹ (trợ) chữa chúng tôi
Tuy nay Nam thổi héo hon
Gốc ( cội) rễ miễn bền ắt lại xanh tươi
Phân sáp sáu mươi bốn người
Tám ông qua đời, thắng trận toàn công
Ông LANH ( Linh), Trà Kiệu xóm trong
170. Giáp THƠ, giáp HUỆ…, chú (Thông) PHƯƠNG, danh THÀNH
Giáp THƯỜNG, THANH BỔN, danh CANG
Sống xứng đạo Chúa, thác an cỏi trời
Rày còn năm mươi sáu người
174. Linh đinh giữa vời, sóng ( vật ) dặt gió lay
CA RẰNG :
“CẦM (Cần), CHUẨN, RUỘNG, BÌNH, HUYỀN, (Kiểm) NẨM
NGUYỆN, THUẦN (Thuấn), NHƠN, SUNG (Sum), HẢI, PHƯỚC,
THÔNG, THÀNH, ĐẶNG (Được), KHUÊ, (Thiên)THỊCH, (Hiến)KIÊN,
TRƯỜNG, (Diên)THUYÊN, PHƯỚC, ĐỨC, TÁNH, CẨN,
LIÊM, Ý, PHONG (Phóng), TÀI, LINH, PHẨM, (Đính)
180. KINH, KIÊM, (Thùy) VỊ, PHÚC, TÚC, TĨNH,
NGHIÊM, CAO, CẢI, TRỊ, LIÊM, SAI,
DIỆM, LÂN, THỊ, NAI, HIỆU, NHỊ,
PHÓ, TRƯỜNG, TỨ, KIÊN,
TÂM, HỮU, ĐỨC, TÀI.
Trấn lâm mắc mỏ nhiều bài
Nhờ ơn Chúa Trời giúp vận, gặp duyên
Khảo đi, khảo lại ghe phen
Quyết làm xiêu hết sĩ hiền Gia Tô
190. Ơn trên rộng lượng (nào) chuẩn cho
Lòng đầu muốn đánh, tay co mà nhìn
Chúa đã in Đức Tin ( bền chắc) buộc chặt
Mới khử trừ ( bầy) BA GIẶC đặng an
Bốn người sợ lật điện loan
CHÁNH, HÂM, QUẢNG, GIÁO tìm đàng trốn đi
Chữ đà ghi: Đào vi thượng sách
Nên cũng chẳng (khá) há trách móc ai
Giúp lưỡng nơi phát hồi bổn xã
LUẬN, VỊ thì (thời) lấy của che thân
200. Nhiều người các họ, các làng
Bao nài tốn của, miễn an phần hồn
Sự nghiệp cố hết chẳng còn
Chạy nhém (trám) cửa nọ, (lo dồn tiền bao) lo lòn miệng kia
Rày sớm lo trau tria hòn ngọc
Sau sẽ ( được) đặng phước lộc thanh nhàn
Quê ta chẳng phải thế gian
Mà (hòng huống được bình an ở đời) lòng trông đặng bình an ở đời
Chánh quê ta vốn (thật) trên trời
199. Chúa sắm dành để thưởng tôi con người .
TẤT
GIÁO XỨ PHÚ THƯỢNG HIỆN NAY.
ĐẤT BỊ CHIẾM LÀM NGHĨA TRANG THÀNH PHÓ ĐÀ NẴNG.
Hội An ngày 14 tháng 11 năm 2010.
Nhân ngày Chúa Nhật kính trọng thể Các Thánh Tử Đạo Việt Nam.
Lm Antôn Nguyễn Trường Thăng.
Trả lời